Diễn biến Chiến_dịch_Lam_Sơn_719

Đầu tháng 2 năm 1971, 17.000 quân (sau tăng lên 21.000) VNCH vượt biên giới với Lào đi theo đường 9 và hướng về trung tâm hậu cần của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Xê-pôn. Chiến dịch Lam Sơn 719, cuộc tấn công vào hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh và cuộc thử nghiệm lớn chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đã bắt đầu.[18] Theo luật, quân đội Mỹ (ngoại trừ các đơn vị không quân, pháo binh, và trực thăng) không được phép tham gia cuộc xâm lấn.[19]

QLVNCH đã tấn công, tiến đến các vị trí đã định trong kế hoạch. Nhưng không chốt giữ được lâu để thực hiện mục đích ngăn cản sự tiếp tế. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã dự đoán trước được hướng tiến công nên đã chủ động thực hiện phòng ngự - phản công, gây thiệt hại lớn và ngăn chặn được ý đồ chia cắt của QLVNCH.

Đợt 1 (31 tháng 1 - 7 tháng 2)

Đây là giai đoạn bên tấn công chuẩn bị hậu cần, chuyển quân. Sở chỉ huy chiến dịch (Quân đoàn 1 QLVNCH) chuyển từ Đà Nẵng tới Đông Hà, chuẩn bị hậu cần để tiếp nhận lực lượng tăng cường từ Sài Gòn. QLVNCH thực hiện các hoạt động nghi binh như thể sắp vượt giới tuyến 17 đánh ra Bắc. Cuối cùng, sở chỉ huy chuyển về đặt tại Khe Sanh.

Đầu tháng 2 năm 1971, trên hướng phối hợp đông đường 9 gồm các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa do Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị chỉ huy, từ ngày 1 đến 5 tháng 2 năm 1971, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 27), Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 84 pháo binh) của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến công chế áp quân QLVNCH ở khu vực Tân Lâm, Sa Mưu; Tiểu đoàn 3 độc lập tập kích quân QLVNCH ở tây Đầu Mầu, Tiểu đoàn 15 đánh cắt giao thông từ Bồng Kho đi Rào Quán. Trong hai ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1971, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 84 pháo binh) bắn 200 viên đạn pháo các loại vào căn cứ Đông Hà và Sở chỉ huy tiền phương Sư đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH ở điểm cao 241... Trên hướng tây đường 9 bao gồm các khu vực Đồng Hến (Atsaphangthong), Pha Lan (Thaphalanxay), Mường Phìn (Phine) tỉnh Savannakhet của nước Lào, Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) phối hợp với Quân Pathet Lào, trong hai ngày (25 và 26 tháng 1 năm 1971) đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn đặc nhiệm, Binh đoàn GM33 ở Pha Lan.

Ngày 6 tháng 2, Bộ Quốc phòng VNDCCH ra quyết định thành lập Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Nam Lào với mật danh "bộ tư lệnh 702". Một lực lượng lớn gồm bộ binh, pháo binh và thiết giáp, phòng không tên lửa được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ tư lệnh mặt trận sẵn sàng đợi lệnh.

Tấn công

Tối 7-2, Tổng thống Mỹ Richard Nixon nhận được bản báo cáo đầu tiên: cuộc tiến quân vượt biên giới Việt – Lào đã tiến hành "theo đúng kế hoạch", mà không gặp bất kỳ sự cản trở nào.

8 giờ ngày 8 tháng 2 năm 1971, Tống thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mở cuộc tiến công nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố: "Sẽ đón các nhà báo quốc tế tại Xê-pôn"...[cần dẫn nguồn].

Đầu năm 1971, tình báo Mỹ ước tính lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Căn cứ 604 là 22.000 người, gồm 7.000 lính chiến đấu, 10.000 người trong các đơn vị hậu cần và hỗ trợ, và 5.000 quân Pathet Lào, tất cả nằm dưới sự chỉ huy của Mặt trận 702 mới được thành lập.[20] Đã có nhiều quan điểm khác nhau về phản ứng có thể của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đối với cuộc tấn công. Tướng Abrams tin rằng, không như ở Campuchia, tại các căn cứ ở Lào, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sẽ trụ lại và chiến đấu. Ngay từ ngày 11 tháng 12, ông đã báo cáo với Đô đốc McCain (1911-1981) rằng

các đội hình bộ binh, thiết giáp, và pháo mạnh đã có mặt ở Nam Lào... các tuyến phòng không ghê gớm đã được triển khai... địa hình rừng núi là một trở ngoại bổ sung. Các bãi trống tự nhiên cho trực thăng hạ cánh hiếm và khả năng lớn là đã được phòng thủ chặt chẽ. Các khối lớn các đơn vị chiến đấu đang ở trong vùng lân cận Xê-pôn, và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chắc sẽ bảo vệ các căn cứ và các trung tâm hậu cần của mình trước bất kì hoạt động quân sự nào của Mỹ và đồng minh.[21]

Tuy nhiên, tình báo MACV đã tin rằng cuộc xâm nhập sẽ chỉ bị chống cự nhẹ. Các cuộc không kích chiến thuật và pháo sẽ làm mất tác dụng của số lượng vũ khí phòng không trong khu vực được ước tính là từ 170 đến 200 khẩu, và mối đe dọa từ các đơn vị thiết giáp Quân Giải được coi là tối thiểu. Khả năng tăng viện của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được xác định là từ hai sư đoàn đóng phía bắc Khu Phi Quân sự sẽ đến sau 14 ngày, và MACV hy vọng rằng các hoạt động nghi binh sẽ giữ chân các đơn vị này trong thời gian xảy ra chiến dịch.[22] Tuy nhiên, khi viện binh của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đến nơi, họ lại không đến từ phía bắc như MACV dự đoán, mà lại từ Căn cứ 611 và thung lũng A Sầu ở phía nam, nơi 8 trung đoàn, tất cả đều có các đợn vị pháo binh hữu cơ, đang ở trong tầm 2 tuần hành quân.

Ngay từ ngày 26 tháng 1, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đang chờ đợi một cuộc tấn công.[23]

Sau các đợt bắn phá dữ dội của hàng chục trận địa pháo gồm hàng trăm khẩu từ 105 mm tới 175 mm bố trí dọc biên giới Việt - Lào trên một chính diện 30 km; và các phi vụ ném bom B-52 dọc hai bên Đường 9 - Nam Lào, cuộc hành quân Lam Sơn - 719 bắt đầu vào ngày 8 tháng 2, khi cánh quân chính của Việt Nam Cộng hòa, lực lượng hiệp đồng thiết giáp/bộ binh gồm 4000 quân thuộc Lữ đoàn 3 Thiết giáp và các Tiểu đoàn 1 và 8 Nhảy dù, tiến về phía Bản Đông theo đường 9 không gặp phản kháng. Để bảo vệ sườn phía bắc, Tiểu đoàn 39 Biệt động quân được không vận tới bãi đáp Ranger North (biệt động quân bắc), còn Tiểu đoàn 21 Biệt động quân tới Ranger South (biệt động quân nam). Các tiền đồn này có nhiệm vụ làm rào cản đối với bất kỳ cuộc tiến quân nào của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từ phía Bắc vào khu vực xâm nhập của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Cùng thời gian đó, Tiểu đoàn 2 Nhảy dù chiếm cứ điểm 30 (Fire Support Base 30), còn sở chỉ huy Lữ 3 Dù cùng Tiểu đoàn 3 Nhảy dù tới cứ điểm 31. Đồng thời, các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh đánh chiếm các bãi đáp Blue, Don, White, và Brown cùng các cứ điểm Hotel, Delta, và Delta 1, che chắn sườn phía nam của đội hình chính.[24]

Nhiệm vụ của đội hình chính là tiến theo thung lũng sông Xê-pôn, một dải đất tương đối bằng phẳng với cây bụi xen lẫn rừng thưa, phía Bắc và phía Nam là núi cao. Gần như ngay lập tức, các trực thăng tiếp vận chịu hỏa lực từ các đỉnh cao, nơi các chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có thể dùng súng máy và súng cối bắn xuống máy bay. Thêm vào đó, đường 9 xấu đến mức chỉ có xe bánh xích và xe jeep có thể đi được về phía Tây. Điều này đặt gánh nặng tăng viện và hậu cần cho máy bay. Các đơn vị trực thăng trở thành hình thức hậu cần sống còn, một vai trò trở nên ngày càng nguy hiểm do trần mây thấp và hỏa lực phòng không không dứt.[25]

M41 Walker Bulldog, xe tăng chiến đấu chính của QLVNCH

Ngày 10 tháng 2, lực lượng thiết giáp QLVNCH kiểm soát được Đường 9 cho đến Bản Đông, nằm sâu 20 km trong địa phận Lào và ở khoảng giữa đường tới Xê-pôn. Đến 11 tháng 2, Bản Đông trở thành căn cứ và là trung tâm chỉ huy chiến dịch. Theo kế hoạch, cần tấn công mạnh để chiếm giữ mục tiêu chính, nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa lại dừng lại ở Bản Đông để chờ lệnh tiến của tướng Lãm.[26] Hai ngày sau, tướng Abrams và Sutherland bay đến sở chỉ huy tiền phương của Hoàng Xuân Lãm tại Đông Hà để đẩy nhanh lịch trình. Nhưng tại cuộc họp, thay vào đó, các tướng đã quyết định đẩy các tiền đồn của Sư đoàn 1 Bộ binh ở phía Nam đường 9 về phía Tây để bảo vệ sườn cho hướng tiến quân theo kế hoạch. Việc chuyển quân này tốn thêm 5 ngày nữa.[27] Trong khi đó, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tổ chức vây hãm Bản Đông từ nhiều phía, không để cho cánh quân chính của Việt Nam Cộng hòa theo đường 9 tiến lên Xê-pôn.

Tại Washington, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird phủ nhận khẳng định của các nhà báo rằng cuộc tiến công của VNCH đã đình trệ. Tại một cuộc họp báo, Laird tuyên bố rằng A Loui (Bản Đông) chỉ là một điểm tạm dừng để các chỉ huy QLVNCH có cơ hội "quan sát và đánh giá các di chuyển của đối phương.... Chiến dịch đang tiến triển theo kế hoạch."[28]

Về phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, sáng 9 tháng 2, Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) tăng cường cho Sư đoàn 308 liên tiếp đánh bại 5 đợt tiến công của chiến đoàn đặc nhiệm dù tại chốt 351 cầu Cha Kỵ, diệt gần hai đại đội. Cùng ngày, tại đường 16, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 88 (Sư đoàn 308) đánh thiệt hại nặng Đại đội 2 (Tiểu đoàn 21 Biệt động quân) bảo vệ an toàn trận địa pháo Làng Sen.

Đêm 11 tháng 2, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 88) và Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 64) tập kích Tiểu đoàn 2 dù ở bắc Sê Num.

Từ ngày 11 đến 13 tháng 2, Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320) liên tiếp đánh thắng hai trận ở khu vực điểm cao 456 và đồi Không tên, tiêu diệt 3 đại đội của Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 (Lữ đoàn dù 3) chốt giữ căn cứ 31 (điểm cao 543) bắc Bản Đông 7 km. Cùng thời gian này, trên hướng nam và tây Bản Đông, các mũi tiến công của QLVNCH đều bị chặn đánh quyết liệt.

Phản công

Phản ứng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đối với cuộc xâm nhập phát triển dần dần. Ban đầu Hà Nội tập trung chú ý vào một hoạt động nghi binh cho Hải quân Mỹ thực hiện ở ngoài khơi VNDCCH. Lực lượng này thực hiện tất cả các hoạt động cần thiết cho việc đổ bộ vào một địa điểm chỉ cách thành phố Vinh 20 km.[29] Nhưng sự chú ý này không kéo dài, Binh đoàn 70 Quân Giải phóng miền Nam đã lệnh cho 3 sư đoàn 304, 308, và 320 vào vùng chiến sự ở Nam Lào. Đặc biệt, Sư đoàn 2 Quân Giải phóng miền Nam cũng đã hành quân từ phía Nam tới phu vực Sê-pôn và bắt đầu tiến về phía đông để đón mối đe dọa của VNCH. Đến đầu tháng 3, Quân Giải phóng đã có 36.000 quân trong khu vực, gấp rưỡi quân số của VNCH.[30] Trung tuần tháng 2 năm 1971, sau khi chiến dịch mất tính bất ngờ, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Mặt trận Đường 9 - Nam Lào (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) chỉ thị cho các đơn vị trong Binh đoàn 70 trên hướng chủ yếu của chiến dịch chuyển sang tiến công.

Phương pháp mà Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chọn để đánh bại cuộc xâm lấn là: Trước hết, pháo phòng không được sử dụng để cô lập các căn cứ hỏa lực ở phía bắc. Các vị trí vòng ngoài sẽ bị giã suốt ngày đêm bằng pháo, tên lửa, và súng cối. Tuy các căn cứ hỏa lực của QLVNCH được trang bị pháo, nhưng các khẩu pháo của họ thường dưới tầm các khẩu pháo Liên Xô cỡ 122 mm và 130 mm của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, việc hỗ trợ của không quân thì không hiệu quả do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ngụy trang kỹ các trận địa pháo. Do vậy các khẩu pháo của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam này chỉ cần đứng một chỗ và nã đạn vào các vị trí này. Vành phòng thủ mà đáng ra đã có thể được thiết lập bằng cách sử dụng B-52 chiến thuật đã bị vô hiệu hóa bởi các chiến thuật đánh gần của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.[31] Tiếp theo, các cuộc tấn công tập trung bằng bộ binh với yểm trợ bằng pháo và tăng sẽ kết thúc việc đánh chiếm.

Tại cứ điểm 31, binh sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đứng trên đỉnh hầm chỉ huy đã bị đánh sập của Lữ 3 Dù QLVNCH

Tại hướng bắc Đường 9 - Nam Lào, từ ngày 16 tháng 2, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã bắt đầu nhắm các cứ điểm Rangers South và chiều ngày 19 tập trung tấn công cứ điểm Rangers North. Lực lượng tấn công trên bộ là Trung đoàn 102 Thủ Đô của Sư đoàn 308, do Trung đoàn trưởng Hoàng Ngọc Tý và Chính ủy Nguyễn Hữu Ích chỉ huy, hỗ trợ bởi các xe tăng PT-76T-54.[32] Tại Ranger North (điểm cao 500), vị trí này do Tiểu đoàn 39 (Liên đoàn 21 biệt động quân) chiếm giữ, có sự hỗ trợ của B-52 và pháo. Phòng thủ đến chiều ngày 20, quân số của Tiểu đoàn 39 đã giảm từ 500 tay súng xuống còn 323, họ bắt đầu rút về phía Ranger South cách đó 6 km.[33] Đến đêm, chỉ có 109 người đến được Ranger South. Trong nỗ lực hỗ trợ Tiểu đoàn 39, 10 máy bay Mỹ, trong đó có 6 máy bay trực thăng, đã bị bắn rơi. Mỹ ước tính Quân Giải phóng thương vong khoảng 600 người trong trận này.[34]

Ngày 21 tháng 2, đến lượt Ranger South, nơi có 400 quân của VNCH với hơn 100 quân từ Ranger North đến, bị tấn công. Lực lượng này giữ vị trí thêm 2 ngày trước khi tướng Lãm ra lệnh rút về Cứ điểm 30 cách đó 5 km về phía đông nam.[35]

Ngày 23 tháng 2, cứ điểm Hotel 2 ở phía nam Đường 9 bị tấn công dữ dội bằng pháo binh và bộ binh. Hôm sau, lực lượng QLVNCH tại đây rút khỏi cứ điểm.

Từ ngày 26 đến 28 tháng 2, được sự hỗ trợ đắc lực của các đơn vị tại chỗ của Đoàn 559, phối hợp với Sư đoàn 308 và Sư đoàn 320 hoạt động ở hướng bắc, các Sư đoàn 304, 324, 2 ở hướng nam và tây nam Đường 9 chuyển từ chốt chặt sang tiến công, đánh thiệt hại nặng sư đoàn 1 BB và sư đoàn TQLC QLVNCH, phá tan các đợt "nhảy cóc" lùng sục đánh phá kho tàng.

Căn cứ 31 (điểm cao 543) - vị trí then chốt 2 ở phía bắc là cứ điểm tiếp theo bị đánh chiếm. Căn cứ này đã bị Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, do Trung đoàn trưởng Khuất Duy Tiến và Chính ủy Đặng Văn Trượng chỉ huy, bao vây tiến công từ ngày 21 tháng 4. Hỏa lực phòng không dữ dội của Quân Giải phóng làm cho việc tăng viện và hậu cần cho căn cứ 31 trở nên bất khả thi. Tướng Dư Quốc Đống, chỉ huy Sư đoàn Dù VNCH khi đó đã lệnh cho các đơn vị của Thiết đoàn 17 từ Bản Đông tiến về phía bắc để tăng cường cho căn cứ. Nhưng lực lượng này đã không bao giờ tới nơi do các mệnh lệnh mâu thuẫn của tướng Lãm và tướng Đống.[36]

Trong khi đó, bằng chiến thuật vây lấn, từ ngày 21 đến 24 tháng 2, các đơn vị của Trung đoàn 64 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã lần lượt tiêu diệt các trận địa hỏa lực và trận địa phòng ngự vòng ngoài, cắt đường bộ từ Bản Đông lên căn cứ 31. Trưa 25 tháng 2, Trung đoàn 64 được phối thuộc thêm Đại đội 9 (Tiểu đoàn xe tăng 198) gồm 3 xe tăng PT-76 nhận lệnh tấn công diệt cứ điểm. 11h30 phút ngày 25/, Đại đội 9 được lệnh xuất kích, húc đổ những cây to đã cưa sẵn tiến lên điểm cao 543, dùng pháo bắn sập các lô cốt yểm trợ bộ binh tiến công. Trong quá trình chiến đấu, 1 xe PT-76 bị bắn cháy và 1 chiếc khác bị bắn hỏng, chiếc xe tăng còn lại mang số hiệu 555 đã một mình quần thảo trong căn cứ suốt hàng giờ, bắn gần hết đạn dược có trong xe. Cuối trận đánh, tổ lái còn nhô ra khỏi xe ném lựu đạn cay và tấn công bằng súng AK. Đến một căn hầm, họ bủa vây bắt giữ 47 tù binh, trong đó có Lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Thọ. Đáng chú ý, xe tăng 555 cũng chính là một trong những chiếc xe đánh tham gia đánh trận Làng Vây năm 1968.[37]

Bằng trận tiến công hiệp đồng binh chủng, Trung đoàn 64 đã làm chủ căn cứ 31, tiêu diệt Lữ đoàn 3 dù, bắt sống đại tá Lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Thọ và toàn bộ Ban tham mưu. Lữ đoàn 1 Dù và Lữ đoàn 1 Thiết giáp tại các căn cứ 30 và Bản Đông khi đó cũng đang bị Quân giải phóng tấn công nên đã không thể hỗ trợ. Thiệt hại của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được Mỹ ước tính là 250 người chết, 11 xe tăng PT-76 và T-54 bị diệt (thực ra trận này Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ mất 2 xe PT-76). QLVNCH có 155 người chết, 100 bị bắt chưa kể số bị thương.[38]

Cứ điểm 30 chỉ trụ được thêm khoảng 1 tuần. Tuy độ dốc của ngọn đồi mà cứ điểm đặt trên đó đã loại trừ khả năng tấn công bằng xe tăng, sự bắn phá của pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã rất hiệu lực. Đến ngày 3 tháng 3, 6 khẩu lựu pháo 105 li và 155 li của cứ điểm đã bị phá hỏng.

Để cứu trợ cứ điểm 30, Thiết đoàn 17 QLVNCH đã tiến về phía căn cứ này [39]. Xe tăng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và QLVNCH đã giáp chiến lần đầu trong Chiến tranh Việt Nam tại phía bắc Đường 9. Trong 5 ngày từ 25 tháng 2, khi cứ điểm 31 bị đánh bại, đến 1 tháng 3, 3 trận đánh lớn đã xảy ra, trong đó QLVNCH được sự hỗ trợ của máy bay. QLVNCH mất 5 xe tăng M-41 và 25 xe bọc thép chở quân (APC). Thiệt hại của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam theo báo cáo của QLVNCH là 17 xe tăng hạng nhẹ PT-76 và 6 xe T-54 bị bắn cháy.[40] Báo cáo của QLVNCH bị các sĩ quan Mỹ nghi ngờ, tướng Sutherland cho rằng đây chỉ là điều bịa đặt. Tài liệu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thì xác nhận trong giai đoạn này, họ chỉ có 1 chiếc T-54 bị chết máy và phải tự phá hủy để tránh bị đối phương thu giữ.

Trong các cuộc tấn công kể trên vào các căn cứ hỏa lực và các đội quân cứu viện, các đơn vị của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã chịu thương vong cao từ bom, pháo, tấn công từ trực thăng trang bị súng, và hỏa lực nhỏ. Tuy nhiên, họ luôn thể hiện sự thiện chiến và quyết tâm cao làm đối phương sửng sốt và ấn tượng. William D. Morrow, cố vấn của Sư đoàn Dù QLVNCH trong cuộc tấn công, đã ca ngợi các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam một cách ngắn gọn - "họ có thể đánh bại bất cứ quân đội nào thực hiện cuộc xâm lấn này." [41]

Các chiến thắng phá tung cánh cung hướng bắc và chiến thắng ở hướng nam đường 9 đã tạo điều kiện thuận lợi cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam triển khai lực lượng tiến công đội hình trung tâm của QLVNCH từ Lao Bảo đến Bản Đông.

Đến Tchepone

Ngày 2 tháng 3, cho rằng thời cơ đã đến, Tổng Quân ủy của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã chỉ thị cho Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận 702 "Tập trung tiêu diệt địch trong khu vực Bản Đông" với thời gian càng nhanh càng tốt. Sư đoàn 308 và các Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320), Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) được lệnh tập trung bao vây tiến công tập đoàn cứ điểm Bản Đông. Sư đoàn 2 (Quân khu 5) hoạt động ở hướng nam bao vây kìm chân hai trung đoàn của Sư đoàn 1 bộ binh VNCH, ngăn không cho chi viện Bản Đông. Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) và một số tiểu đoàn của Mặt trận chốt giữ đường 9 giữa Bản Đông và Lao Bảo, quyết chặn không cho đối phương chạy thoát.

Mới non một tuần, con số thương vong của quân đội Sài Gòn đã lên đến 3.000. Từ Mỹ, Lầu Năm Góc điện hỏi tới tấp đại sứ Bunker và bộ chỉ huy lực lượng Mỹ ở Sài Gòn. Nguyễn Văn Thiệu sốt ruột lệnh tướng Hoàng Xuân Lãm bằng mọi giá “chiếm lấy Tchépone nhưng không cần cố giữ lấy nó”, miễn sao tin tức loan đi “chiếm Tchépone” để có lý do tuyên bố chiến thắng, còn ngay sau đấy rút liền cũng được"[13]

Trong khi đội hình chính của QLVNCH đang dậm chân tại Bản Đông đã được 3 tuần, còn các đơn vị Dù và Biệt động quân đang chiến đấu để sống sót, Tổng thống Thiệu và tướng Lãm quyết định thực hiện một cuộc tấn công trực thăng vận xuống chính Xê-pôn. Mặc dù các nhà lãnh đạo Mỹ và các phóng viên đã tập trung vào thị trấn bỏ hoang này như là một trong các mục tiêu chính của Lam Sơn 719, nhưng nơi mà hệ thống hậu cần của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đi qua thực ra lại nằm ở phía Tây của thị trấn bị tàn phá. Tuy nhiên, nếu các lực lượng của VNCH có thể chiếm giữ Xê-pôn thì Nguyễn Văn Thiệu sẽ có được một lý do chính trị để tuyên bố "chiến thắng" và rút quân về Nam Việt Nam.[42]

Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa

Cuộc tấn công này đã giao cho Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH đang chiếm giữ các căn cứ phía nam Đường 9 thực hiện, chứ không phải cho đội hình chính với thiết giáp yểm trợ hiện đang ở Bản Đông, cũng không phải lực lượng Thủy quân lục chiến dự phòng. Điều đó có nghĩa là, trước hết, Thủy quân lục chiến phải được đưa vào thay chân Sư đoàn 1 ở phía nam đường 9, việc này làm chậm thêm quá trình tiến quân. Bộ chỉ huy QLVNCH quyết định đưa thêm đội 2 gồm Lữ đoàn Dù số 2, Trung đoàn TQLC số 147 và 258 tham chiến.

Cuộc tấn công bắt đầu vào ngày 3 tháng 3, khi các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh được không vận tới 2 căn cứ hỏa lực (Lolo và Sophia) và bãi đổ bộ Liz, tất cả đều ở phía nam Đường 9. 11 chiếc trực thăng đã bị bắn rơi và 44 chiếc khác bị bắn hỏng khi chở 1 tiểu đoàn tới căn cứ Lolo.[43] Ba ngày sau, 276 trực thăng UH-1 được bảo vệ bởi các máy bay AH-1 Cobra mang rocket và máy bay tiêm kích đã đưa các tiểu đoàn 2 và 3 của Trung đoàn 2 từ Khe Sanh tới Xê-pôn. Đây là cuộc đổ quân bằng trực thăng lớn nhất trong Chiến tranh Việt Nam.[44] Chỉ có 1 trực thăng bị hỏa lực phòng không bắn rơi khi quân đổ xuống bãi đổ bộ Hope, cách Xê-pôn 4 km về phía đông bắc.[45] Trong hai ngày, các đội trinh sát của hai tiểu đoàn này lùng soát Xê-pôn và khu vực xung quanh nhưng không đến gần vùng đồi núi ở phía Tây thị trấn. Họ không tìm thấy gì ngoài xác những người lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bị chết do trúng bom. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phản ứng bằng cách tăng cường bắn phá hàng ngày vào các cứ điểm, đặc biệt là Lolo và Hope.

Trong khi đó, phối hợp với lực lượng tại Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ở hướng đông, từ ngày 5 đến 10 tháng 3, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên hướng chủ yếu liên tục đánh các lực lượng tiếp viện của QLVNCH đến giải tỏa cho Bản Đông, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 1 (Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH), chia cắt đội hình QLVNCH ở Đường 9 - Bản Đông và các đơn vị bảo vệ hướng nam.

Rút lui

Mục tiêu tại Lào có vẻ như đã đạt được, Tổng thống Thiệu và tướng Lãm ra lệnh rút quân, cuộc rút lui bắt đầu ngày 9 tháng 3 và sẽ kéo dài cho đến hết tháng, phá hủy Căn cứ 604 và các kho hàng gặp trên đường. Tướng Abrams khuyên Nguyễn Văn Thiệu nên tăng cường quân tại Lào để họ tiếp tục gây rối khu vực cho đến khi mùa mưa bắt đầu.[46] Tuy nhiên, chiến trận đã chuyển sang hướng có lợi cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hỏa lực phòng không vẫn có sức hủy diệt mạnh, và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không gặp khó khăn trong việc hậu cần và tiếp viện cho các đơn vị tham gia chiến đấu.

Ngay khi thấy dấu hiệu rằng bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã bắt đầu rút lui, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tăng cường nỗ lực nhằm tiêu diệt lực lượng này trước khi nó có thể về đến Nam Việt Nam. Hỏa lực phòng không được tăng cường để chặn đứng hoặc làm chậm các nỗ lực hậu cần và sơ tán của trực thăng, các căn cứ hỏa lực thiếu người bị tấn công, và các đơn vị trên bộ của QLVNCH phải đi qua một chuỗi đầy các ổ phục kích suốt dọc Đường 9.

Binh sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được căn cứ Lolo

Sáng 16/3, Sư đoàn 2 do Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn chỉ huy, được tăng cường Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) thực hiện mệnh lệnh của Tư lệnh chiến dịch tiêu diệt Trung đoàn 1 bộ binh thuộc Sư đoàn 1 VNCH đang bỏ điểm cao 723 chạy về hướng Đông Bắc và lọt vào khu vực phục kích, đội hình hoàn toàn rối loạn. Sau hai ngày tiến công, Sư đoàn 2 đã tiêu diệt và bắt sống 1.750 lính, diệt gọn Trung đoàn 1 thuộc Sư đoàn 1 VNCH, bắn rơi 50 máy bay các loại, thu hàng trăm súng, pháo, súng cối hạng nặng.

Trên đà thắng, từ ngày 12 đến 17 tháng 3, các Trung đoàn 36 (Sư đoàn 308), 64 (Sư đoàn 320), 66 (Sư đoàn 304) và các đơn vị hỏa lực xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ của Quân giải phóng đã tiến công dồn dập tập đoàn cứ điểm Bản Đông do lữ đoàn 1 dù và 2 thiết đoàn đóng giữ. Trước sức tiến công mãnh liệt của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, ngày 18 tháng 3, do đã bị thiệt hại quá nặng, QLVNCH bắt đầu rút khỏi Bản Đông. Đến 20 tháng 3, cứ điểm Bản Đông bị tiêu diệt, Quân Giải phóng tuyên bố đã diệt 1.762 quân đối phương, bắt sống 107 lính, thu và phá hủy 113 xe quân sự, 24 khẩu pháo, bắn rơi 52 máy bay trực thăng. Trận đánh còn được gọi: Đại phá Bản Đông, mấu chốt chiến dịch, theo lời đề tựa của một bức ảnh của phóng viên Đoàn Công Tính.

Chỉ có một quân đội kỉ luật cao và hiệp đồng tốt mới có thể thực hiện được cuộc lui quân có trật tự khi phải đối mặt với đối phương quyết chiến, nhưng QLVNCH không có được đặc điểm nào như trên. Cuộc rút quân nhanh chóng biến thành một sự thảm bại, tháo chạy hỗn loạn.[47] Những giờ phút bi thảm nhất của đạo quân chủ lực tinh nhuệ, thực hiện cuộc hành quân Lam Sơn - 719 đã diễn ra.

Ngày 19-3-1971, tiểu đoàn 3, Trung đoàn 27 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được lệnh cơ động phục kích ở động Na, Kế Sách, Ba Lào. Chờ xe tăng và thiết giáp lọt vào đội hình phục kích, tiểu đoàn đánh thẳng vào giữa đoàn xe. Sau 1 giờ chiến đấu, tiểu đoàn diệt gọn 28 xe tăng, thiết giáp, vận tải. Gần 100 binh sĩ gan dạ nhất đã nằm lại trận địa, hàng trăm binh lính khác vứt bỏ súng đạn, chạy vào rừng hòng thoát thân đã bị vây bắt làm tù binh.

Ngày 20 tháng 3, QLVNCH đã hoàn toàn rút khỏi khu vực Bản Đông - nơi đã được chọn làm khu vực đánh trận then chốt. Từng cứ điểm đơn độc bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiêu diệt hoặc đánh bại, và mỗi chuyến rút quân đều phải trả giá đắt. Ngày 21 tháng 3 Thủy quân lục chiến tại cứ điểm Delta phía nam Đường 9 bị tấn công dữ dội bằng pháo binh và bộ binh. Trong một cố gắng rút quân không thành, 7 trực thăng bị bắn rơi và 50 chiếc khác bị trúng đạn.[48] Cuối cùng, lực lượng Thủy quân lục chiến tại đây đã liều phá vây và di chuyển đến nơi an toàn tại cứ điểm Hotel rồi cũng nhanh chóng rời bỏ cứ điểm này. Trong khi rút Trung đoàn 2 QLVNCH, 28 trong số 40 trực thăng tham gia đã bị bắn rơi hoặc hư hại.[49]

Đặc công Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phá nổ kho đạn tại Khe Sanh, 23 tháng 3 năm 1971

Trên Đường 9 - Nam Lào, đoạn từ Bản Đông về Lao Bảo, hơn 100 xe tăng, xe thiết giáp của QLVNCH bị chặn đánh. Lực lượng tăng thiết giáp này đã mất 60% số xe tăng và một nửa số xe bọc thép (APC). Quân đội VNCH hoảng sợ và rối loạn, tháo chạy không còn tổ chức nên đã bỏ lại nguyên vẹn 54 khẩu lựu pháo 105mm và 28 khẩu pháo 155mm.[50] Máy bay Mỹ lại phải ném bom phá hủy số xe pháo này để tránh bị đối phương chiếm và tái sử dụng.

Nhiệm vụ bọc hậu trên Đường 9 trước được giao cho Sư đoàn Dù VNCH nay thuộc về Lữ đoàn 1 Thiết giáp. Khi được tù binh báo rằng trước mặt có 2 trung đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang mai phục, chỉ huy lữ đoàn, Đại tá Nguyễn Trọng Luật báo cáo cho Tướng Đống. Tư lệnh quân Dù đã điều lực lượng giải tỏa được đoạn đường nhưng lại không báo lại cho Đại tá Luật.[51] Để tránh bị tiêu diệt trên Đường 9, Đại tá Luật đã lệnh cho đội hình bỏ đường chính khi chỉ còn cách biên giới 5 km để đi vào đường mòn trong rừng. Tuy nhiên, con đường mòn lại dẫn đến ngõ cụt bên bờ dốc của sông Xê-pôn, đội hình bị tắc lại ở đây, trong khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam áp sát và tấn công dữ dội từ phía sau. Cuối cùng, hai xe ủi đất phải được trực thăng cẩu vào để QLVNCH tạo một đoạn sông cạn để lội qua.

Những binh lính sống sót về được miền Nam Việt Nam vào ngày 23 tháng 3.[52] Đến ngày 25, 45 ngày kể từ khi bắt đầu chiến dịch, lực lượng còn sống sót của QLVNCH đã rút hết về được đến miền Nam Việt Nam. Căn cứ tiền phương tại Khe Sanh cũng bị tấn công ngày càng mạnh bởi pháo và đặc công. Ngày 23/3/1971, phối hợp với lực lượng Đường 9 Nam Lào, bộ đội Đặc công B5 đã tập kích căn cứ không quân Mỹ ở Tà Cơn, tiêu diệt 100 phi công trực thăng và nhân viên kỹ thuật, phá hủy hoặc gây hư hại 42 máy bay lên thẳng, 6 xe tăng. Một bộ phận lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát triển đánh vào khu vực Hướng Hóa, Khe Sanh làm quân Mỹ náo loạn Ngày 6 tháng 4 đến lượt căn cứ này bị bỏ lại, các lực lượng của VNCH và Mỹ rút hết, Chiến dịch Lam Sơn 719 kết thúc.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Lam_Sơn_719 http://119.15.167.94/qdndsubsite/vi-vn/89/70/86/86... http://www.militaryhistoryonline.com/vietnam/vietn... http://encarta.msn.com/text_761552642___25/Vietnam... http://doanket.orgfree.com/lamso719/vsc-lamson1.ht... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,8... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9...